Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Sự cần thiết ra đời Luật Dân hay số: Quy định về nạo, phá thai còn lỏng lẻo

Viên chức y tế huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên khám thai, tư vấn kiến thức coi ngó SKSS cho người dân. Ảnh: D.N

Văn bản pháp luật quy định còn chưa chặt chịa

Điều 4- Luật Bảo vệ sức khỏe dân chúng năm 1989 nêu rõ: “phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo ước muốn… Nghiêm cấm các cơ sở y tế và cá nhân làm các thủ thuật, phá thai, tháo vòng tránh thai nếu không có giấy phép do Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cấp”.

Luật này đã chú trọng đến quyền tự do chọn lọc và tiếp cận dịch vụ y tế của từng người dân, nhằm bảo đảm quyền lựa chọn của nữ giới và quý trọng quyết định của họ khi có thai ngoài ý muốn.

Cùng với Luật Bảo vệ sức khỏe quần chúng 1989, Bộ Y tế và các ngành can hệ đã ban hành nhiều quyết định, hướng dẫn quốc gia…về coi ngó SKSS/KHHGĐ. Thí dụ: Nghị định số 23/HĐBT năm 1991 ban hành 5 điều lệ về khám chữa bệnh bằng thuốc y khoa cựu truyền dân tộc, điều lệ vệ sinh khám chữa bệnh và phục hồi chức năng và thanh tra quốc gia về y tế. Cụ thể tại Chương 9 bảo vệ sức khỏe nữ giới và trẻ em Điều 32 có quy định: “Điều 32. Đề nghị về nạo thai, phá thai: Các cơ sở y tế chuyên khoa phải thực hành các đề nghị của đàn bà về đặt và tháo dụng cụ tử cung, hút điều hòa kinh nguyệt, nạo phá thai theo hoài vọng từng người. Các bệnh viện chuyên khoa phụ sản, bệnh viên đa khoa tỉnh, thành thị mới được quyền phá thai bệnh lý, phá thai to. Nghiêm cấm các cơ sở y tế và cá nhân chủ nghĩa làm các thủ thuật nạo thai, phá thai, tháo vòng tránh thai nếu không có giấy phép do Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cấp”. Đây là Nghị định ban hành từ năm 1991 đến nay vẫn còn có hiệu lực thi hành.

Hoặc Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11 về Dân số có quy định tại Điều 7. Các hành vi bị Nghiêm cấm: ngăn trở, cưỡng bức việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình; chọn lọc giới tính thai nhi dưới mọi hình thức. Hay tại Khoản 3 Điều 11, Thông tư số 01/2004/TT-BYT chỉ dẫn về hành nghề y dược tư nhân có một số quy định về điều kiện chung: Có đạo đức nghề nghiệp; tại Khoản 5 cùng Điều này: Có văn bản cam kết hiểu và thực hiện Luật Bảo vệ sức khỏe quần chúng, Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân, các chương trình y tế nhà nước phổ cập, các quy định về chuyên môn kỹ thuật y tế và các văn bản quy phạm luật pháp khác về y tế có liên hệ. Rõ ràng, hai khoản quy định trong điều này khá chung chung và trên thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp nạo, phá thai trái với quy định luật pháp. Một số văn bản khác cũng chỉ mới là chỉ dẫn quy trình chuyên môn kỹ thuật cho các dịch vụ chăm chút sức khỏe sản xuất nói chung và các kỹ thuật phá thai đối với từng tuyến.

Tại Khoản 2, Điều 7 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 ngăn cấm “lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức”. Trong các văn bản như Nghị định 104/NĐ-CP, Luật đồng đẳng giới 2006, các văn bản của Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ, cũng quy định các hành vi xác định giới tính thai nhi và phá thai vì lý do tuyển lựa giới tính…

Những quy định này dẫn đến việc không ít quan điểm cho rằng: Sự phổ thông rộng rãi của dịch vụ phá thai và sự dễ dàng của thủ tục phá thai đã lý giải vì sao phá thai vẫn còn phổ biến, trong khi tỷ lệ dùng các biện pháp tránh thai vẫn không ngừng tăng lên.

Tác dụng ngược chiều của sự lỏng lẻo

Đến nay, văn bản hệ trọng có chế tài nghiêm khắc nhất là Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Điều 243 Bộ luật này quy định: Tội phá thai trái phép: (1). Người nào thực hành việc phá thai trái phép cho người khác gây thiệt hại cho tính mệnh hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người đó hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm. (2). Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. (3). Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. (4). Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhận chức phận, cấm hành nghề hoặc làm mướn việc một mực từ một năm đến năm năm.

“Tuy Bộ luật Hình sự đã quy định việc xử lý hình sự đối với việc nạo, phá thai trái phép nhưng chúng tôi lại không tìm thấy bất kì một văn bản chỉ dẫn nào cho quy định này. Vấn đề này khiến cho người đọc chẳng thể nắm bắt được và người áp dụng luật thì không rõ để truy tố, xét xử hay định khung cho tội này. Thực tiễn cho thấy việc nạo, phá thai trong rất nhiều trường hợp đã gây những hậu quả nghiêm trọng, nhiều trường hợp dẫn đến vô cơ, hay có thể bị mất mạng trong quá trình nạo, phá thai nhưng việc xử lý này rất hạn chế”, ông Đinh Công Thoan – Nguyên Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Tổng cục DS-KHHGĐ), thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập Dự án Luật Dân số chia sẻ.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực dân số, y tế, có nhiều nguyên tố tác động đến nạo, hút thai, nhưng có thể quy về 4 nguyên tố chính: Quy định của pháp luật; do bệnh tật; do dùng biện pháp tránh thai thất bại; lối sống. Trong 4 yếu tố trên thì yếu tố quan yếu nhất tác động đến nạo, phá thai là những quy định của luật pháp.

“Có những quy định đã tạo cho viên chức y tế và khách hàng tiếp cận dịch vụ một cách quá dễ dàng: Khách hàng không cần bất kỳ một loại giấy má nào, kể cả giấy tùy thân là chứng minh dân chúng, trong khi người cung cấp dịch vụ lại có chế độ phụ cấp phẫu thuật, như vậy sẽ có tác dụng ngược chiều”, ông Nguyễn Văn Tân – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ nêu quan điểm.


Mặc dầu nạo, hút thai trong những năm gần đây đã giảm nhưng đây vẫn đang là thực trạng nhức nhối trong săn sóc SKSS, đòi hỏi chúng ta không được né tránh mà cần phải tụ hợp giải quyết. Đây thực sự là một vấn đề khó vì mọi biện pháp đều phải để ý đến nguyên tắc: trọng quyền sinh sản, đảm bảo quyền tuyển lựa của các cặp vợ chồng. Vừa hạ thấp tỷ lệ nạo, hút thai, song song phải bảo đảm chất lượng và an toàn tuyệt đối cho người sử dụng các biện pháp tránh thai.

Thu Nguyên